Tuổi học trò

NPV – Tôi sinh ra ở một cù lao sông Hậu, nhà của cha mẹ tôi nhìn ra sông, con sông nhỏ thuộc sông Hậu Giang, chạy dọc theo con lộ đá đường Long Xuyên Châu Đốc, ai đã từng đi xe đò trên đường nầy, sẽ nghe tới địa danh Bắc Năng Gù. Tên ấy theo tôi mấy anh xe đò ngày xưa đã quen miệng, đặt sai tên.

Vì chiếc Bắc ấy chạy từ chợ Bình Mỹ đi sang vùng thánh địa Hòa Hảo, nơi đó là sông Hậu Giang, bị cù lao chia thành nhiều nhánh, có một nhánh chảy qua làng tôi, đó là cù lao Năng Gù, một nhánh nữa chảy qua nối với Tiền giang. Chiếc bắc ấy không phát xuất từ Năng Gù, không chạy tới Năng Gù, nó chỉ chạy ngang qua trên đường chạy của nó, nhưng chạy gần đuôi của một cù lao kia hơn là đầu cù lao Năng Gù, cho nên Năng Gù và chiếc bắc ấy không có gì dính dáng nhau, và cù lao Năng Gù có ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nay là làng Bình Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Tôi đã đi hơi xa một chút, xin trở lại bên kia sông là con lộ đá đường Liên Tỉnh 10, nối liền Long Xuyên Châu Đốc, bạn có biết tại sao gọi là Liên Tỉnh 10 không ? Ngày xưa sau khi Lục Tỉnh mất luôn vào tay Pháp, họ chia đất Nam Kỳ ra làm 20 Tỉnh, mỗi Tỉnh xếp theo Thứ Tự sau đây : 1. Gia Định, 2. Châu Đốc, 3. Hà Tiên, 4. Rạch Giá, 5. Trà Vinh, 6.  Sa Đéc, 7. Bến Tre, 8 Long Xuyên … để dễ nhớ, người ta ghép thành một bài Tứ Tuyệt :

Gia Châu Hà Rạch Trà

Sa Bến Long Tân Sóc

Thủ Tây Biên Mỹ Bà

Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc.

Tỉnh Châu Đốc thứ tự 2, tỉnh Long Xuyên thứ tự 8, do đó hai tỉnh cọng lại là 10. Ghe ngày xưa cũng có số, ví dụ ghe nào số HF 1 là ghe của chủ ở Gia Định, HF 6 là ghe của chủ ở Sa Đéc. Tôi lại đi xa nữa rồi.

Bên kia sông có một ngôi trường, xây tường gạch, lợp ngói móc, có ba lớp và một căn phòng nhỏ, bên tay phải chừng bằng phần ba lớp học, các lớp nằm trên nền xây đá cao hơn sân trên một thước tây, chú tôi dạy và làm Trưởng giáo của Trường nầy, thời Pháp tên của nó là ECOLE DE BÌNH M³, hồi mới dạy, chú tôi ở ngay phòng bên cạnh lớp, sau chú tôi cất nhà bên cạnh trường, sau nữa chú tôi mua đất trong làng, dời nhà về bên cù lao, hàng ngày đi dạy, chú tôi bơi xuồng qua sông chở theo con và cháu đi học.

Cách nhà tôi chừng 200 thước, cũng có ngôi trường làng, cũng xây giống như ngôi trường Bình Mỹ, nhưng xây thấp hơn, nền chỉ cao hơn sân chừng 4 tấc tây, và có xây lan can ngăn chia giữa hành lang với sân trường. Trước sân trường có trồng mấy cây Ô Môi, gần Tết ô Môi trổ hoa màu tím trông rất đẹp, trái ô môi bằng cườm tay dài từ 3. 4 tấc đến một thước, bên trong có những miếng ngăn, cách nhau chừng đầu đủa ăn, mỗi miếng nầy có cái hột dẹp và có những cơm màu nâu sậm đen, ăn nó ngọt, ăn nhiều bị táo bón, nhiều người rất thích ăn ô môi.

Tôi sanh năm Tân Tỵ (1941), lúc tôi biết, hàng ngày chú tôi bơi xuồng sang sông, chở theo anh tôi, con chú tôi, do đó cha tôi cũng cho tôi theo anh sang bên kia sông học, anh tôi lớn hơn tôi ba tuổi nên học với chú tôi dạy chung trong một lớp, hai trình độ Cour Moyen và Cour Supérieur, ai ở Châu đốc biết thầy giáo Huỳnh Bá Nhệ ấy là chú tôi.

Tôi học Cour Élémentaire với thầy giáo Lê Văn Thọ, thầy vở lòng của tôi, ai là học sinh Cao Thắng có bằng Tú Tài Kỹ Thuật, lật phía sau lưng, có thể thấy chữ ký và tên của người viết bằng Lê Văn Thọ, đó là thầy tôi, sau nầy về làm việc tại Phòng Khảo Thí Nha Kỹ Thuật Học Vụ.

image001.jpg

Thầy giáo đầu đời của tôi, Thầy Lê Văn Thọ, tôi và bạn học thuở ấu thơ Lê Văn Khải (ảnh 2007)

Trường đầu đời nầy tôi có nhiều kỷ niệm, tôi nhớ sau khi đi học đã mấy ngày, một hôm tập viết, thầy tôi bảo lấy thước gạch hàng, tôi không có thước vừa khóc vừa chạy sang lớp anh tôi để mượn cây thước của anh ấy. Chú tôi đang ngồi dạy ở bàn thầy giáo, thấy tôi vừa khóc vừa lấy thước đi về lớp, chú bảo tôi :

–          Nín đi! Đi học mà khóc cái gì !

Tôi nhớ mỗi lớp có hai dãi bàn, có 2 tấm bản đen, mỗi bản đặt nằm trên một cái giá, bàn thầy giáo dựa tường nằm giữa hai tấm bản, tôi ngồi bàn đầu, phía tay phải của tôi là anh học trò tên Độ, nhà anh ở phía tay trái của trường, cách miếng đất trống, bên tay trái của tôi là Trai và kế bên Trai là Lê Văn Khải con của thầy. Hồi nhỏ chúng tôi thường gọi là trò Độ, trò Trai, trò Khải.

Một hôm thầy kêu Trai đọc bài, Trai đứng lên để nhìn bản đọc, Khải và tôi mỗi người một bên nắm quần xà lỏn của Trai, Trai chẳng để ý, đứng lên, quần bị tuột xuống, Trai phải ngồi xuống. Thầy tưởng Trai không vâng lệnh, Thầy gọi lên đánh Trai hết mấy khẻ tay, tội nghiệp Trai bị khẻ tay mà chẳng than phiền chúng tôi, lần khác Thầy gọi, Trai chẳng dám đứng lên, Thầy định khẻ tay nữa, có vài anh học trò lớn bất mãn liền mét với Thầy nguyên do vì chúng tôi nắm chiếc quần xà lỏn Trai không dám đứng lên.

Biết rõ lý do, thầy gọi Khải và tôi lên bàn, thầy lấy cây thước bản ( cây thước dài chừng 2 thước, thầy giáo dùng để chỉ lên bảng giảng bài), bắt chúng tôi chúm năm ngón tay lại, thầy đánh hai chúng tôi mỗi đứa 3 cái, đau ôi là đau thấu xương từ đó chúng tôi không dám nắm quần đùi trò Trai nữa.

Trong sân trường về phía nhà trò Độ có cái đu, chúng tôi tha hồ đánh đu, học trò gái chơi chuyền chuyền hay nhảy đây, hoặc họ chơi cò cò, sân trường phía nhà trò Trai có một cây, mùa Hè hoa nở đỏ, mọi người đều gọi là Điệp Tây, có lẽ hồi xưa trong Nam không có thứ cây nầy, Pháp đến rồi họ trồng gọi là Điệp Tây, cũng như giữa sân đình làng tôi có trồng cây Chuối Tây. Sau nầy tôi mới nghe Điệp Tây là Phượng Vỹ. Ở cạnh đó có cây dừa cao bị sét đánh cháy phân nữa những tàu lá.

Trai kể cho chúng tôi nghe, ban đêm ở đó có con quỷ mẹ vào những đêm mưa lâm râm hay trời không trăng, tối thui, con quỷ mẹ ru con ngủ, tiếng ru lảnh lót, tiếng võng đưa cọt kẹt, nên một hôm trời mưa, Thiên lôi đến cắm cờ trên đọt cây dừa, rồi ông Trời đánh một cái rầm, cây dừa bị cháy lá, cây Điệp Tây bị gảy nhánh, Trai còn dặn chúng tôi, khi nào trời mưa coi chừng bị Trời đánh, đi dưới mưa thỉnh thoảng nên rờ lên đầu coi có bị Thiên Lôi cắm cờ không, nếu bị thì rút cờ ném xuống đất mà chạy, còn ở trong nhà thì dọn cơm ra mà ăn, ai ăn cơm ông Trời không bao giờ đánh, vì ‘’ Trời đánh còn tránh bữa ăn ‘’. Chúng tôi ai cũng say sưa nghe Trai kể chuyện Trời đánh, vừa sợ ma vừa sợ trời đánh và cũng phục Trai biết nhiều.

Có một lần trò Hàn, ngồi ở cuối lớp thầy gọi tập đọc, đánh vần chữ TÔI, trò Hàn cứ đánh vần T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy dạy:  ‘‘ Mầy phải đánh vần T, Ô, I, TÔI ‘’, trò Hàn : ‘’Dạ‘’, rồi cũng cứ T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy đánh mấy lần, trò ấy cũng cứ TUI chớ không làm sao đọc TÔI, thầy bỏ qua, gọi trò khác.

Thầy dạy học, hết giờ thầy kéo kẹo, đến ra chơi thím bán kẹo kéo cho chúng tôi ăn, một lần giờ ra chơi, tôi ở ngoài sân chú tôi đến bên móc ví, lấy cho tôi một cắc, tôi nhớ tờ giấy Hào hay mười xu ấy là một tờ giấy nho nhỏ, in màu vàng, còn tờ giấy hai Hào lớn hơn một chút, in màu nâu, được tiền chú cho, tôi chạy mua kẹo kéo ăn, kẹo xốp dòn, bên ngoài còn dính lớp bột trắng, nhờ đó những cây kẹo để chung không dính với nhau. Kẹo ấy làm là dùng đường nấu (gọi là thắng) cho đặc lại, rồi dùng đủa kéo nó ra, nhập nó lại rồi kéo nó ra, cứ kéo ra, kéo vô cho đến khi thành kẹo, nên gọi là kẹo kéo.

Hồi đó trai gái học chung, con gái cha mẹ cho đi học rất ít, lớp trên tôi có chị Phấn, lớp tôi có cô Phe và những trò gái khác tất cả đều để tóc dài, kẹp lại phía sau lưng.

Sau đó Việt Minh cướp chánh quyền, Thanh Niên tiền phong tập họp thành hàng ngủ, họ vác tầm vông vạt nhọn, tập đi tới, đi lui với hàng ngang, hàng dọc, rồi họ tập vỏ, rồi chú tôi và Thầy Thọ bỏ Trường về tỉnh, trường gần nhà tôi thầy giáo cũng bỏ đi, cả hai trường đều đóng cửa, học trò nhỏ tuổi được ở nhà chơi, lớn tuổi hơn lo công việc đồng áng, ban đêm thanh niên ở làng tôi chèo ghe qua bên kia sông đào đường, chặt cây cản lộ, ban ngày dân bên kia sông bị bắt đi lấp đường, phá cản cho xe nhà binh, xe đò chạy. Thỉnh thoảng Tây Trắng, Tây đen đi bố ráp, tuy nhỏ tôi cũng phải chạy theo mẹ theo anh. Có một hôm tôi thấy một chiếc tàu lớn lắm, lấy lá dừa che phủ ở trên, ghé vào trường tôi ở mấy hôm, những người ở trên tàu thấp lùn, cha tôi bảo đó là lính Nhật.

Nhớ lại năm ấy là năm Ất Dậu 1945, tôi sanh năm 1941, như vậy tôi đi học sớm lắm, mới có 4 tuổi, người ta chưa tới tuổi cập vở đến trường thì tôi đã bị thất học rồi.

Sau khi chú tôi về Tỉnh một thời gian, cha tôi được thư của chú, bảo anh tôi và con của người chú khác, bơi xuồng sang sông chở tủ sách của chú, đem về để ở nhà tôi, một hay hai năm sau chú tôi mới về mở tủ lấy sách mang đi, cha tôi mượn lại bộ sách đạo Niết Bàn Tạp Chí, cô tôi không chồng ở chung nhà, mượn giữ lại bộ Tiểu Thuyết Thứ Bảy và chú tôi để lại mấy quyển sách Luân Lý, Cách Trí, Quốc Văn Giáo Khoa Thư các lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Cao Đẳng, cho anh em tôi học.

Cha tôi làm Hương Sư, các thầy giáo bỏ trường Bình Thủy ra đi, giao chìa khóa trường lại cho cha tôi, có dạo anh Hai tôi đi Tân Châu học dệt vải, vải dệt từ bông vải gọi là vải ta, sợi chỉ to nên vải dầy, trông thô, còn dệt từ sợi tơ của tầm, sợi tơ rất nhỏ, vải mịn và chắc gọi là lụa, quận Tân Châu ở Châu Đốc nổi tiếng là Lụa Mỹ A cũng gọi là Lãnh Mỹ A, có lẽ vì lụa ấy mặc vào nó mát lạnh nên gọi là Lãnh, quần Lãnh Mỹ A mới may, mặc đi nghe sột sạt, chỉ có một màu đen, nhuộm với trái Mạt Nưa, chỉ dùng may quần cho phụ nữ và giá rất đắc tiền.

Rồi một thời gian sau vải nhập cảng, anh tôi không công ăn việc làm, lấy chìa khóa cùng với anh Hoài mở cửa trường, lấy lớp dạy tư, tôi không có đi học, dạy vài tháng anh tôi bỏ đi Sàigòn làm cho nhà thuốc Nhành Mai, ở bên hông chợ Sàigòn số 36 Saboraine sau đổi là Tạ Thu Thâu, chuyên bán thuốc dán Con Rắn và thuốc Dưỡng Thai. Còn thầy Hoài sau làm chủ nhà thuốc Bình Sanh, chạy ghe máy bán khắp nơi trong vùng Long Xuyên, như Sơn Đông Mãi Võ. Năm 1969, đi lính về phép gặp được anh trong quán nhậu tại thị xã Long Xuyên, cụng với anh một ly tràn đầy bọt bia.

Rồi lúc nào đó chú Nguyễn Hoa Hẩu lấy trường mở lớp dạy tư, chú là con của thầy giáo Nguyễn Văn Đe, tôi nghe nói ông Bảy Đe hồi đó dạy tại Long Xuyên, chú tôi theo học với ông, sau ông đổi đi dạy trường tỉnh Sa Đéc. Chú Hai Hẩu cũng như anh Hai tôi có đi học lớp nhứt trường tỉnh, nhưng cả hai không đậu được bằng Primaire. Cha tôi cho tôi đi học với chú Hai, lớp học nầy chỉ có một dãi bàn, mỗi bàn rất dài, đóng ván sao dầy gần 2 phân nên rất chắc và nặng khỏi chê. Lớp học chỉ có một cửa và một lối vào ra, một bên là tường một bên là dãi bàn học, hai cửa sổ, hai tấm bản và cái bàn thầy giáo, trên tường có treo tranh vẽ khá lớn cảnh bến tàu và chợ Sàigòn, những hôm trời mưa lớp tối tù mù vì không có đèn đóm chi cả.

Trường có một cái trống, chú Hai không treo lên, để nó ở gần bàn chú ngồi và chỉ mình chú đánh trống vào lớp, trống ra chơi, trống tan trường, chú đánh bằng cái dùi to chừng bắp tay, có nhiều hôm giận quá khi dạy học trò không hiểu, không thuộc bài, chú sẳn tay quơ cái dùi trống đánh luôn lọc trò vào lưng nghe thình thịch gần giống như chú đánh trống tan trường.

Một hôm chú dùng cây thước kẻ đánh luôn vào mặt trò Đơn, cây thước ấy là cây thước vuông bằng gỏ, bốn cạnh của nó được người thợ mộc khéo tay xẻ bốn đường, khảm vào đó 4 miếng thau, là cây thước cưng của học trò nhà giàu, cạnh thước đó chú đánh vào xương gò má trò Đơn tét một đường chảy máu, giờ ra chơi tôi phải đưa trò Đơn về nhà, lấy muối bọt chấm miếng nước xát vào chỗ vết thương, trò Đơn tội nghiệp lo sợ than thở với tôi : – Tao bị vầy, về nhà cha tao thấy, chắc ổng đánh tao nữa.

Đến năm 1950, chú Hai Hẩu, tôi thường gọi là Chú Hai chớ không gọi thầy, tổ chức cho học trò xuống Long Xuyên thi, một số đóng góp tiền thuê một chiếc ghe, xuống đậu ở bến sông gần trường Nam Tiểu Học Long Xuyên để dự thi, gia đình tôi có người quen làm Police ở dãi phố gần Rạp hát Thanh Liêm, tôi và người em con ông chú ở đó, ngày đi thi tôi ngồi ở phòng học cột tràm, lợp lá vách cũng không che được kín, dãi ấy sát với hàng rào dây kẻm gai, phía sau là ao, hồ, có nhà vệ sinh cất trên ao cá, học sinh muốn đi còn phải đi qua chiếc cầu khỉ bằng tre, sau nầy chỗ ấy lấp đi để xây Trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu.

image002.jpg

Sau một ngày thi, tôi vẫn về ở nhà quen, đến hôm kêu Résulta, lúc ấy chừng 10 giờ sáng, tôi không rõ có bao nhiêu thí sinh thi, nhưng đi nghe lèo tèo chừng vài chục lố nhố đứng chờ ở giữa sân cờ, một ông thầy giáo ra đứng trên cái ghế giữa sân trường, bắt sĩ tử phải xếp hàng, xong ông ta mới lấy cái loa làm bằng kẻm, sơn trắng đọc danh sách những người đậu, gồm có số báo danh, họ tên và nơi sanh.

Tôi nghe đọc tên Huỳnh Hữu Tâm đậu, Tâm đứng gần đó cũng nghe như thế, còn tôi không có tên, biết mình đã thi rớt, tôi ra bến xe đi về nhà.

Xuống xe, tôi lo sợ về nhà sẽ bị cha tôi đánh đòn vì thi rớt, chị tôi bơi xuồng qua đón, chị hỏi :

– Đi mấy ngày nay thi đậu hay rớt ?

Tôi buồn bả đáp :

 – Rớt rồi chị Ba.

 Chị tôi mĩm cười nói thêm:

– Vậy là từ nay thay họ đổi tên thành Bùi Kiệm rồi!

 Nghe chị nói tôi còn buồn hơn, xuồng chị tôi chưa cập bến, có một anh hàng xóm tên là Vương Triều Hón, năm ấy anh ta cũng gần năm mươi, thấy tôi anh ta hỏi :

 – Sao chú mầy đậu rớt ?

Tôi buồn bả trả lời :

– Rớt rồi anh Năm!

Đúng ra về vai vế anh ta phải gọi tôi bằng anh, nhưng anh ta đã trộng tuổi, lại để râu thành ra mấy anh chị em tôi đều gọi anh ta bằng anh. Anh ta cười ruồi nói với tôi :

– Cậu Ba có một bầy dê, mầy sẽ làm ông Tô Võ, chăn dê đến khi nào dê đực đẻ thì mới thôi đó nghe mậy!

Tôi đã sợ bị đòn, anh ta nói đùa, tôi không mấy vui, từ chỗ xuồng cập bến về tới nhà chừng 200 thước, anh Năm Hón nói xong đi về nhà của ảnh, tôi đi về nhà tôi, hai hướng khác nhau, còn lại một mình, tôi tư tưởng, cha tôi trước kia ăn chay trường được 10 năm rồi bị lao phổi, đi bệnh viện Long Xuyên được Bác Sĩ Bàng trị hết, khuyên dứt cha tôi ăn mặn, và có người khuyên nuôi dê, lấy sữa dê uống cho bổ, vì vậy cha tôi nuôi một bầy dê Bắc Thảo, giống to con, màu tím lốm đốm trắng, sữa nhiều. Nếu thi đậu, tôi có thể xuống tỉnh học lớp Nhì, còn nay thi rớt, nhà cha mẹ tôi lại không dư ăn dư để, anh kế tôi đang học ở Long Xuyên, nên tôi phải ở nhà chăn bầy dê là cái chắc, dê thứ chi cũng ăn, phải chăn giữ để chúng đừng ăn của người ta, lại còn phải trông nom bảo vệ chúng để khỏi bị chó cắn.

Về tích Tô Vũ, tôi đã nghe người ta nói, ngày xưa ông ta làm quan, vua Hán phái đi sứ sang Hung Nô, vua Hung Nô không coi sứ ra chi, bắt đày ông Tô Vũ đi chăn dê, dạy rằng khi nào dê đực đẻ thì tha cho về Hán. Khi bị đày chăn dê, ông Tô Vũ vẫn coi mình là sứ giả, về sau vua Hán cho quân đánh Hung Nô, tìm ra Tô Vũ râu tóc bạc phơ, tay vẫn cầm cờ sứ rách nát te tua.

Bước vào nhà, cha tôi đang vẽ tranh, không nhìn tôi, ông hỏi :

–          Thi đậu rớt mậy ?

Tôi trả lời ngay :

–          Dạ rớt rồi cha!

–          Vậy thì mầy cũng nếm được mùi thi cử!

Cha tôi không nói thêm nữa, tôi mừng vì khỏi bị đòn, anh em tôi sợ những trận đòn của cha, đánh mà không cho khóc, không cho ai can, má hay cô tôi can thì chúng tôi còn bị đòn nhiều hơn.

Khi tôi xuống tỉnh dự thi, tôi ở nhà anh Police quen, còn anh tôi ở trọ dưới Cái Sơn, lúc thi rớt ra về tôi cũng không nói cho anh tôi hay. Vài hôm sau đến Chủ Nhật, anh tôi về, gặp tôi ngoài sân, anh cười nói với tôi :

– Thi đậu rồi sướng quá hé!

Tôi năn nỉ anh tôi :

 – Thôi mà! Thi rớt rồi anh còn mỉa mai nữa chi vậy ?

 – Không mầy thi đậu rồi mà!

– Thôi đi anh ơi, tôi đứng gần ông thầy cầm cái loa, ổng đọc tên thằng Tâm con chú Chín, chớ đâu có tên tôi!

Anh tôi cải lại :

– Sao kỳ vậy ? Thằng Tâm rớt mầy đậu mà!

Cha tôi trong nhà nghe hai anh em cải lẩy thi đậu rớt, liền gọi anh tôi vào hỏi cho rõ, anh tôi nói là xem bảng thấy rõ tên tôi, còn Tâm con chú tôi bị gạch đỏ cũng như những đứa thi rớt khác. Cha tôi nói :

– Vậy mà mấy bửa nay nó nói nó rớt.

Tôi thấy khi rớt, cha tôi chẳng buồn và rầy rà, khi thi đậu cha tôi chẳng những không vui mà lại còn có nét suy tư và buồn bả, sau nầy tôi mới biết, đáng lẽ thi đậu gia đình phải cho tôi xuống Long xuyên học tiếp, nhưng cha mẹ tôi không có tiền, tôi phải thất học, cũng là con, hai anh tôi đều được xuống tỉnh học, còn tôi thì không được như vậy, cha mẹ nào lại không buồn, mẹ tôi vốn ít nói, nên cũng chẳng nói chi về việc thi cử của tôi. Có người đưa ý kiến, cho tôi lên Châu Đốc ở nhà chú tôi đi học. Cha tôi nói :

–  Chú nó tốt, nhưng còn thím.

Vài năm sau, anh tôi lãnh bằng đem về cho tôi đó là Văn Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, có chữ ký của Thanh Tra Hàng Tỉnh Long Xuyên Trương Văn Đức và Giám Đốc Sở Học Chánh Nam Việt Trần Bá Chức, đấy là mảnh bằng đầu đời, ngày nay tôi vẫn còn giữ được.

Rồi năm sau, năm 1951, chú Hai Hẩu xin làm thầy giáo, chú xin thêm thầy về dạy đó là thầy Giáo Chín, quê ông ở Chợ Mới, thầy đến cùng gia đình ở một chiếc ghe nho nhỏ, con thầy có anh Quan, anh Quân, chị Liệt, chị Tuyết và con gái út tên So, da trắng, môi son, tóc hớt ngắn như con trai, cô ta đẹp và dễ thương.

Tôi thì, nhà chưa có đủ tiền đi học ở dưới tỉnh, cha tôi xin chú Hai cho tôi học buổi sáng, buổi chiều ở nhà chăn dê. Nhà tôi gần trường, cha tôi từng làm Hương Quản rồi Hương Sư nên mỗi ngày, lúc giờ chơi chú Hai và thầy giáo Chín thường đến nhà tôi uống trà, bàn chuyện Đông Tây, kim cổ.

Một hôm, cha tôi đưa quyển Tam Thiên Tự, sách đóng bìa cứng, bảo tôi đem theo, lúc rãnh lấy ra đọc và viết xuống đất cho nhớ , tôi đã học Thiên : Trời, Địa : Đất, Cử : Cất, Tồn : Còn, Tử: Con, Tôn : Cháu, Lục: Sáu, Tam : Ba, Gia: Nhà, Quốc: Nước, Tiền: Trước, Hậu: Sau, Ngưu : Trâu, Mã : Ngựa cho đến bây giờ tôi chỉ còn nhớ bấy nhiêu đó.

image003.jpg

Tôi đi chăn dê trong cánh đồng, thường đi một mình nên lấy Tiểu Thuyết Thứ Bảy theo đọc, những chuyện Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, Hòm Đựng Người của Nguyễn Triệu Luật, Bóng Cờ Trắng Trong Sương Mù của Ngọc Giao (?), tôi không nhớ có thơ TTKH hay không, vì ngày đó tôi không đọc thơ., tôi đã đọc hầu hết những chuyện ngắn trong những quyển tiểu thuyết của chú tôi. Thời gian đó tôi còn đọc Tế Điên Hòa Thượng, Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, Thằng Bờm, Thần Hổ của TCHYA (Đái Đức Tuấn), cho nên tôi bị nhiễm tiểu thuyết.

Đã vài năm mà không có tiền cho tôi xuống tỉnh học, cha tôi cho tôi ở nhà luôn, tôi không nhớ duyên cớ gì tôi lấy giấy học trò, viết mực tím gửi cho cô So, đó là thơ tình, thứ tình như con nít chơi nhà chòi, làm đám cưới, đi đám giỗ … thư tôi nhờ chú út Thửng, nhà chú giữa trường học và nhà tôi, trường học nay thầy giáo Chín đưa gia đình về ở phòng bên cạnh lớp. Chú Thửng hơn tôi chừng 2 tuổi, chú không được thông minh, tôi nghĩ chú không đọc thư tôi mới nhờ. Hôm sau, chú Thửng đưa lại cho tôi thư cô So, nay tôi không còn nhớ hết cô đà viết chi trên tờ giấy học trò, mực tím, tôi chỉ nhớ lấy có một hàng quan trọng: ‘‘…Em cũng thương anh, anh thương em thì để bụng, giấu kín đừng nói cho ai biết hết nghe…’’ Tôi dấu kỷ lá thư ấy, dấu kỷ đến nổi tôi không nhớ nó ở đâu và tôi làm y như lời cô So dặn, tôi không nói với ai hết, ngay với cô tôi cũng chẳng nói thêm tiếng nào.

Sau nầy lên Sàigòn học, cuối năm đầu tiên ấy, Tâm và tôi đi đến quê cô, tận bến đò Bà Vệ ở Kiến An, Chợ Mới, ngủ lại đó đêm mồng một tết, tôi cũng chẳng nói được với cô ta lời nào. Sao nầy nghe nói cô làm cô giáo, lập gia đình với một thầy giáo. Năm 1986, hơn 30 năm sau, có dịp đi huyện Chợ Mới, tôi lại ghé thăm thầy Chín, thím chỉ lên bàn thờ, bảo thầy chết vừa mới mãn tang. Thầy không dạy tôi, tưởng tình bạn vong niên với cha tôi, tôi thắp hương lạy thầy.

Rồi cô giáo So cùng với con ở đâu gần đó về nhà thăm mẹ, thấy tôi khách, cô cuối đầu chào, tôi cũng cuối đầu chào lại. Cô nói thêm với thím giáo vài câu rồi đi ra. Tôi ngồi nán lại một chốc rồi xin phép ra về, từ nhà ấy ra ngõ, tôi thấy cô giáo So đứng ở cửa hông nhà bên cạnh, có nhìn thấy tôi, chẳng ai nói tiếng nào, thật tôi đã làm đúng lời cô dặn năm xưa:‘’ Thương em thì để bụng ‘’.

Năm 1954, cha tôi qua đời, anh tôi ở Pháp viết thừ về, nhờ chú giúp dùm tôi đi học, do đó tôi lên Châu Đốc vào học Trường Nam Tiểu Học, lớp nhì với thầy Lê Quang Điện, lớp Nhì H của chúng tôi ở dãi lớp lợp lá, vách lá, nền đất, phía tay phải cuối đằng xa là Trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, có lớp Nhứt gần đó, thầy Châu Văn Tính dạy, con gái thầy thi rớt vào Đệ Thất, nên thầy cho cô Dung học chung với con trai của lớp thầy, như thế năm ấy trường có một bóng hồng. Thầy Châu Văn Tính có một người con trai sau hy sinh vì tổ quốc, người ta lấy tên anh đặt cho tên trại Lực Lượng Đặc Biệt trên đường Trần Quốc Toản, gần Trường đua ngựa đó là Trại Châu Minh Kiến. Thầy dạy vở lòng của tôi, thầy Lê Văn Thọ cũng dạy lớp nhì F trường đó.

Từ đó tôi xa ngôi trường học vở lòng, xa ngôi trường làng, những lần về quê, khi đi ngang ngôi trường thuở ấu thơ, tôi nhớ tới nhiều người bạn học, Ngát cháu ngoại của cô tôi đã ra người thiên cổ được mấy năm rồi, cô Dậu, xẩm rất xinh, con chú chệt Soạn, chú chạy xe đạp rao bán thịt heo trong làng, chú ở gần nhà Cô tôi, xa trường nên cùng với cháu Ngát, trưa về nhà tôi ăn cơm rồi leo lên võng ngủ một giấc, thức dậy lại đi học buổi chiều. Nhớ lại hồi đó chú thím Tư Soạn có con gái lớn là Chị Muối đã đến tuổi lấy chồng, mấy người hàng xóm chỗ tôi hay đùa chú với giọng Chệt nói tiếng Việt : ‘’ Con bà cũng lứn dồi, gã cho thàng ló thì cũng xừng ‘’ (Con bà cũng lớn rồi, gã cho thằng đó thì cũng xứng), hay ‘’ Cái đồn đó đông thật là đông ‘’, chú Tư nghe người ta nhái giọng thì cười chớ không giận, người ta hỏi sao chú không giận hờn chi hết, chú trả lời : ‘‘ – Há ngộ dận làm chi ? Lể ngộ bán thịt kiếm tiền mua gạo mà!  Bở nào ló mua, bớt ló một miếng thịt hà !’’. Chú thím Tư Soạn đã chết từ lâu, cô Dậu đã lấy chồng, đã nhiều năm không gặp lại cô ấy, chắc cháu nội ngoại nay cũng đã nhiều.

Những khi có ca sĩ hát : ‘’ Trường làng tôi, cây xanh lá vây quanh. Muôn chim hót vang lên trên cành …, luôn luôn làm cho tôi nhớ tới ngôi trường tôi đã học vở lòng hơn là ngôi trường làng gần nhà.

Qua bài hát nầy, tôi nghĩ những ngôi trường xưa, giữ biết bao nhiêu tình cảm của thuở học trò, thật là đậm đà trinh trắng của tuổi thơ.

Tôi vào học, mấy ngày đầu bài toán nhân, chia tôi làm sai bét, tôi quên hết cửu chương, chú tôi bắt học cửu chương đọc xuôi, đọc ngược, rồi hỏi đâu trả lời đó, tháng đầu tôi đứng gần hạng bét, nhưng từ tháng thứ hai trở đi tôi đã tiến bộ nhiều, vài tháng sau vị thứ tôi ở vào nhứt, nhì, ba, tư mà thôi.

Một hôm, sáng sớm tôi sắp sửa đi học thì có tin báo cho biết mẹ tôi đau nặng, bảo phải về gấp, chú tôi cho phép nghỉ học về thăm mẹ, hôm ấy đi xe đò về Năng gù rồi cùng anh rễ tôi đi Long Xuyên từ Long Xuyên đi xe đạp vào Vĩnh Chánh, đến nơi trời đã về chiều, gia đình đã đưa mẹ tôi đến ngôi chùa làng, nơi ngày xưa mẹ tôi đã quy y, chị tôi bảo :

– Má chờ em đó, lại nằm với má đi!

Tôi đến nằm bên cạnh má tôi, nơi bộ ván ngựa trải manh đệm kê ở hậu liêu của chùa, nhìn sang má tôi, người đã mê man rồi. Chị tôi lay gọi :

– Má ơi má!  Thằng Tông nó về nằm bên cạnh má đó!

Tôi chỉ nghe má tôi thốt giọng ư ư yếu ớt, cũng không mở mắt nhìn ai nữa, đêm ấy mẹ tôi từ trần, người nhà nhìn đồng hồ treo trên cột bảo là 10 giờ. Tôi đã mất thêm mẹ, trở nên mồ côi từ năm 13 tuổi.

Trường Nam Tiểu Học, hồi đó có ba dãi xây tường lợp ngói, chỉ riêng có dãi tôi học là lợp lá, nằm sát hàng rào, bên kia thuộc khu đồn trú của quân đội, nhưng cách xa nên lau sậy mọc tràn lan, quanh năm không có bóng người. Sân trường trồng những cây bả đậu, cây điệp loại cây to hoa tím nhỏ, ở chính giữa bốn dãi lớp là cột cờ, mỗi ngày vào buổi sáng, học sinh đều phải xếp hàng chào quốc kỳ, hát quốc ca rồi mới đi vào lớp, mỗi lần đến phiên trực, lớp tôi có Thu đứng ra bắt nhịp cho học sinh cả trường hát quốc ca, về sau Thầy Điện tập cho tôi bắt nhịp ở trong lớp vài lần, rồi bắt tôi ra bắt nhịp cho học sinh hát, từ đó trở đi Thu và tôi thay phiên nhau bắt giọng và đánh nhịp : ‘’Nầy Công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng! Hai! Ba Tất cả học sinh theo đó đồng ca : Nầy Công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng….

Trong lớp, thỉnh thoảng Thầy dạy cho cả lớp cùng hát những bài hát ngắn, nay tôi chỉ còn nhớ bài Lên Đường ‘’ Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường, kiếm nguồn tươi sáng, ta nguyền đồng lòng điểm tô non sông tự nay ra sức anh tài, đoàn ta chen vai nề chi chông gai lên đường…’’

Và có một lần mỗi học sinh phải làm một món thủ công, thầy chấm điểm sau đó tất cả những thủ công có điểm cao của tất cả các lớp, đem tới Phòng Thông Tin để triển lãm, tôi được triểm lãm thủ công con trâu nắn đất sét.

Ngày nay lớp nầy tôi chỉ còn nhớ có Tỏ ở đâu Bình Di Bắc Nam chi đó, gần biên giới Miên xuống học, có Lê Quang Nản con của Thầy Điện.

Trường ở tại tỉnh lỵ, nhưng có những học sinh từ Núi Sam, từ Mỹ Đức, từ Cồn Tiên bên kia sông phía trước chợ Châu Đốc đến học, phía Cồn Tiên là làng Khánh Hậu hình như quê của nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết ở đó, còn ở chỗ bến Bắc đi sang bên kia là Châu Giang, nơi đó là làng Chăm, không có người sang học ở Châu Đốc, làng Chăm đó tôi không hiểu sao họ lưu lạc đến  đó và lập nghiệp từ bao giờ. Hồi nhỏ, có mấy người làm nghề đánh cá, vào khoảng tháng Ba tháng Tư họ hay đi chài vùng sông chỗ tôi, chiều họ về đậu bến sông và hay lên nhà tôi chơi, tôi còn nhớ có anh Ali và Ama cũng còn nhỏ tuổi, anh tôi xin anh Ali dạy gồng, anh ta dạy anh tôi ngồi và luyện chi đó, tôi nghe anh tôi tập thở phì phò, chỉ có vậy mà thôi.

Sau họ không chài cá nữa, nhưng mỗi năm có người đàn bà Chăm tôi gọi là Bác Tư, cứ mấy ngày tết là xuống thăm cha mẹ tôi, Bác ấy ở đó chơi vài hôm mới về, khách tới thăm chơi trong nhà phải cơm nước, khi Bác Tư về mẹ tôi cho bánh tét, bánh phồng, trà mứt và gạo nữa, cho đến năm nào đó, cha tôi nói chi tôi không rõ, bác khóc với mẹ tôi và nói sẽ không xuống nữa, từ đó tôi không thấy Bác Tư Chà trở lại. Có khi tôi muốn tìm thăm Bác Tư Chà và anh Ama hay Ali nhưng tôi không biết nhà bác chỗ nào bên làng Châu Giang.

Sang năm sau tôi lên lớp Nhứt E, học với Thầy Châu Văn Tính, cuối năm có chụp hình nên tôi còn nhớ nhiều bạn học cùng lớp như Huỳnh Bảo Toàn con chú tôi, Lê Văn Khá con thầy Thọ, Tiên, em của Tỉnh Trưởng, Châu Minh Quyền con của Thầy Tính, Hồ Văn Tri và em ruột Hồ Văn Phú cùng học chung lớp nhà ở Mỹ Đức, Đổng con chủ lò bún ở Đường Rầy Xe Lửa, Dễ, Bé  ở khu Thánh Thất Cao Đài. Có một anh chàng em của người tài xế xe Công Tạo chạy đường Châu Đốc Sàigòn, sau anh ta là nhạc sĩ gặp tôi vài lần khi thang thang trên hè phố Sàigòn, anh chàng Nu cao lêu nghêu nghe nói sau nầy làm ở Hội Việt Mỹ, và còn nhiều người nữa tôi không thể nhớ hết vì ít khi gặp lại.

Học lớp Nhất E nầy, thầy Tính khuyến khích học sinh làm toán cho nhanh, mỗi ngày đều có toán đố, 10 học sinh lên trước được thầy chấm, những học sinh còn lại sẽ không được  điểm, cho nên học sinh phải làm nhanh và chạy cho lẹ, có hôm tôi đã vô ý nguyên bình mực tím đổ khắp quần áo bộ bà ba trắng tôi mặc đi học, cũng vì muốn đi nhanh đem vở lên cho thầy.

Tôi hảnh diện vì được Thầy giao cho chép bảng những bài Cách Trí, Địa Lý, Sử Ký cho những học sinh khác chép theo vì chữ tôi đẹp, thường những bài luận của tôi Thầy cho tới 8 điểm, thầy sửa vài chỗ rồi lấy làm bài mẫu cho học sinh, tôi còn hảnh diện với các học sinh cùng lớp vì cuối tuần thầy giao cho tôi mang sổ về nhà cộng điểm, xếp hạng. Nhớ lại thuở nhỏ đó là vinh dự lớn của người học trò, được thầy tín cẩn mới cho làm việc ấy.

Vì tôi đi học lại đã quá tuổi thi vào Trung Học, nên bác tôi phải làm Thế Vì Khai Sinh cho tôi, tôi sinh năm 1941, nay phải sửa lại 1943 để còn đủ tuổi thi vào Đệ Thất. Thế Vì Khai Sanh ấy giả nhưng mà nó là thật vì phải Tòa Hòa Giải Rộng Quyền ở Cần Thơ ký vào sổ bộ, nó thật nhưng mà giả vì ngày sinh tháng đẻ của tôi nào phải vậy. Chiến tranh vì học hành, thi cử vì trốn lính nhiều người phải làm giấy tờ giả vài tuổi cho đến 10 tuổi. Rồi sau nầy không còn chiến tranh, nhưng để thoát khỏi chế độ Cộng sản người ta phải làm giấy tờ giả, anh chị giả làm cha mẹ, em út thành ra con cái, tuổi trẻ hóa già, tuổi lớn hóa nhỏ…

Ở Châu Đốc, có những hôm muốn đi núi chơi, chúng tôi học sinh rủ nhau vài người, ra chợ mua vài ổ bánh mì, vài hộp cá mòi mang theo ăn, hoặc mua một nải chuối già với một hai cân khoai mì mang theo ăn. Ngày đó, chúng tôi đã được dạy hát bài Suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Điệm: ‘’Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do … Ngô Thủ Tướng! Ngô Thủ Tướng muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Thủ Tướng. Thời đó học trò chúng tôi sửa lại : Khoai mì chuối! Khoai mì chuối muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn khoai mì chuối ‘’. Sáng sớm đi, chừng một giờ đồng hồ vào tới chân núi Sam, ngày xưa hai bên lộ không có nhà cửa, nhìn hai bên đồng mông hiu quạnh, nhìn chẳng xa chi lắm là kinh Vĩnh Tế do ông Thoại Ngọc Hầu trong nom dân phu đào cập theo ranh giới Việt Miên, từ Châu Đốc sang tới Hà Tiên

Trong khuôn viên lăng mộ Thoại Ngọc Hầu

image004.jpg

Khi vào tới chân núi là gặp ngay chùa Tây An, nơi đó có ngôi mộ của Đức Phật Thầy, rẽ tay phải sẽ đến miễu bà Chúa Xứ, nằm bên tay phải, xế đó bên tay trái là lăng của Thoại Ngọc Hầu, nơi đây trong khuôn viên lăng có mộ của mười mấy người, ấy là những đào kép hát, hình như họ bị bức tử chôn theo Thoại Ngọc Hầu. Nếu đi nữa sẽ tới Bạch Vân Tịnh Xá, nơi đây có tượng Phật ngồi tham thiền, từ đây có đường leo lên đỉnh núi, nếu đi nữa sẽ tới chùa hang cũng có đường lên núi.

Nhưng nếu từ Châu Đốc vào rẽ trái một khoảng sẽ có đường đi lên đỉnh núi, ngày xưa Pháp làm cho xe hơi chạy lên tận đỉnh, đường cho xe quan chạy nên có tên là Đường Quan, cũng như trước dinh tỉnh trưởng, có chiếc cầu sắt bắc ra sông cho tàu của quan đậu, gọi là Cầu Quan, trên đỉnh có một ngôi nhà xây người ta gọi là pháo đài, dùng để canh gác, lúc tôi đến đó, tôi nghĩ có lẽ là nhà nghỉ mát, trên đỉnh cao, gió thổi lồng lộng. Lên đến đây bày thức ăn ra ăn, rồi ngã lưng nằm, ngủ một giấc thoải mái, đến gần chiều từ từ theo đường quan xuống núi, đường tuy xa nhưng dễ đi và không nguy hiểm, vì không phải leo trèo qua những vồ đá cheo leo.

image005.jpg

Ở Chợ Châu Đốc, có một món ăn rất nổi tiếng gọi là Bún Nước Lèo, ăn mới biết hương vị, hình như đó là món ăn của người Chăm hay người Miên chớ không phải của người Việt. Còn người Việt thì có đặc sản Mắm Thái, mắm thái là mắm con cá lóc, sau khi làm mắm, người ta xắt thịt con mắm cá lóc thành từng sợi nhỏ bằng đầu đủa ăn, rồi trộn với đu đủ, gừng, ớt, tỏi. Khi ăn chúng ta cuốn với cải xà lách, kèm thêm thịt ba rọi luộc xắt lát mỏng, thêm bún, khế, chuối chát, gừng, ớt xắt lát. Chúng ta có đủ hương vị : cay, nồng, béo, chua, chát, mặn, ngọt. Còn Mắm Ruột là làm từ ruột cá lóc, vì ruột thì ít cho nên hiếm, giá đắt.

Tại trung tâm tỉnh lỵ Châu Đốc, còn có một cây Bồ Đề chánh gốc Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ, nơi đức Phật đã thành đạo, Hội Thông Thiên Học Quốc Tế trụ sở tại Ấn Độ, Hội ấy tặng cho ông Phạm Ngọc Đa, Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Việt Nam, Hiệu Trưởng đầu tiên của Thủ Khoa Nghĩa, ông được Tỉnh Trưởng cấp đất nên hạ thổ trồng vào năm 1952.

image006.jpg

Cuối năm học, tôi đứng hạng nhất của lớp, ngày phát thưởng tổ chức tại rạp hát Lạc Thanh, rạp duy nhất của tỉnh, nằm ngay tại đầu chợ. Phần thưởng tôi lãnh được quyển Việt Nam Tự Điển, sách Văn Phạm của Trần Trọng Kim …

Thầy Châu Văn Tính là thầy giáo dạy rất giỏi, có lương tâm chức nghiệp, sau thầy làm Hiệu Trưởng trường đó rồi làm Thanh Tra học chánh tỉnh Châu Đốc. Khi về hưu, Thầy mua nhà trong cư xá Lữ Gia, tôi có đến thăm thầy một lần.

Gần cuối năm học lớp Nhất, một hôm chú kêu tôi hỏi :

’’ –  Người ta nói nhất nghệ tinh nhất thân vinh, chú muốn cho con học trường Bách Nghệ ở Sàigòn, con có chịu không ? ‘’

Tôi nhớ trong năm mình có làm bài luận, Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, nhưng lúc nầy, tôi đâu cần chi hơn là được đi Sàigòn học, nên tôi chịu liền. Chú tôi viết thư xin cho tôi dự thi, nộp giấy thế vì khai sinh…, sau đó trường Cao Thắng gửi thư cho chú tôi biết ngày và nơi thi, yêu cầu gần đến ngày thi, tôi lên trường Cao Thắng số 65 Đỗ Hữu Vị lấy phiếu báo danh.

Tôi mong nhanh chóng tới ngày thi vào Cao Thắng, năm 1948 hay 1949, tôi có lên Sàigòn một lần, ở nhà thuốc Nhành Mai  nơi anh tôi làm việc ở đó, vào khoảng tháng 8 ta. Tôi còn nhớ, đêm Trung Thu con gái ông chủ nhà thuốc Nhành Mai gọi tôi lên lầu, chị đưa bánh Trung Thu cho tôi ăn, ban ngày tôi và một thằng bé cháu ông chủ Nhành Mai, đi quanh đó lượm nút chai, đến bến xe đò xem xe chở khách, Sàigòn với cyclo, xe điện với đèn xanh, đèn đỏ muôn màu, lôi cuốn tôi lúc tuổi còn thơ.

Khi thi tuyển vào Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, tôi làm trật hết cả 2 bài toán, nhưng nhờ bài Luận văn và Câu Hỏi Thường Thức, tôi đậu hạng 51/300 học sinh trúng tuyển. Bé người đứng hạnh nhì trong lớp, đậu thủ khoa, Toàn con chú tôi đậu hạng 36.

Sắp đến ngày thi vào Trường Cao Thắng, chú tôi bảo cho đi thi, có thi rớt cũng như thưởng cho tôi một chuyến đi chơi ở Sàigòn.

Năm 1956, thi tuyển vào Cao Thắng, tôi dự thi tại trường Nữ Trung Học Gia Long với 3000 sĩ tử. Buổi trưa đi bộ xuống chợ Sàigòn ăn cơm, ăn xong trở lại vườn Tao Đàn nằm nghỉ chờ tới chiều thi lại, nằm trên băng đá vườn Tao Đàn tôi nhớ tới Thằng Được, Thằng Bỉ trong tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của Hồ Biểu Chánh.

Thi xong về nhà, tôi được chú cho biết nhà trường thưởng cho tôi một chuyến đi Vũng Tàu 21 ngày, thế là tôi làm giấy tờ rồi vài hôm sau đi, từ các tỉnh, học sinh lên Sàigòn tập trung ở Trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt ngủ một đêm, hôm sau mới lên đường ra Vũng Tàu.

Trại do Thanh Tra Xường ở Vĩnh Long làm Trại trưởng, mỗi tỉnh cử 2 thầy hay cô giáo dạy thể dục thể thao đi theo, năm đó bộ Giáo Dục mua 2 dãi nhà của người Pháp, lập nhà nghỉ của học sinh, nó nằm trên đường đi Bãi Sau cách chợ Vũng Tàu chừng 300 thước, cách bờ biển cũng chừng 200 thước, nơi đó cũng là trung tâm thành phố.

Học sinh chia thành từng Đội, đội chúng tôi là nhóm học sinh Châu Đốc với Học Sinh Chu Văn An Sàigòn, nói chung trại sinh tuổi từ 8 cho đến 16 hay 17, trai có, gái có, giàu nghèo đều có, ai học giỏi đi khỏi đóng tiền, còn những học sinh khác đi Trại phải trả chi phí mất 800 đồng.

Sinh hoạt của trại thì ngày ăn ba bửa, đi tắm biển thường xuyên, đi tham quan đèn pha trên đỉnh núi, đền thờ cá ông, xuống tàu Hải Quân đi Cần Giờ nhưng mới ra khơi nhiều người say sóng, tàu đành quay trở lại.

Trại sinh tất cả khoảng trên 300, 2 dãi nhà ấy mỗi nhà gồm hai tầng, mỗi tầng phải kê giường chồng mới đủ chỗ nằm, có những cậu còn nhỏ ban đêm ngủ mớ còn gọi Má ơi! Má ơi! Có cậu ngủ nữa đêm thức dậy la lối om xòm vì cậu nằm trên tè xuống !

Một hôm cũng gần đến ngày về, buổi sáng điểm danh mất hết hai trại sinh 9, 10 tuổi, có người cho biết hai cậu ấy nhớ nhà quá, tối cứ khóc nhớ mẹ, trại đi báo bót Cảnh Sát, cách đó chừng 100 thước, rồi trại sinh theo chương trình sinh hoạt trong ngày, chẳng ngờ đến 3 giờ chiều, hai cậu bé được Cảnh sát mang giao lại cho Trại, chúng đã trốn lên xe đò về tới Biên Hòa bị Cảnh Sát chận lại gửi trả về cho trại. Tội nghiệp cho hai cậu bé, thầy cô phải khuyên nhũ và an ủi.

Thi vào Trường Cao Thắng, tôi chỉ làm trúng có một bài toán, tôi nghĩ là mình thi rớt rồi, có bị rớt, tôi vẫn được học ở Thủ Khoa Nghĩa, hạng 51 vẫn có học bổng.

Trại Hè Vũng Tàu chấm dứt, về lại Trường Lê Văn Duyệt nghỉ tạm, tôi đi xe buýt vào Chợ Lớn thăm chị ruột tôi ở đó, chị ấy cho biết tôi đã thi đậu, chuyến về tôi mới cuốc bộ từ Bùng Binh Sàigòn đến Trường Cao Thắng để xem kết quả, tôi thấy tên mình ở hạng 132 trong 250 học sinh được trúng tuyển. Dù vậy tôi không biết chú tôi có cho tôi đi học ở Sàigòn không? Cuối cùng chú tôi quyết định cho tôi đi học ở Sàigòn.

Từ đó tôi xa Châu Đốc, sau nầy mỗi lần về thăm nhà, ban đêm tôi thích ra ngồi cầu tàu trước chợ Châu Đốc, để nhìn xuống lòng sông, ghe, xuồng qua lại, nhìn qua bên kia Cồn Tiên, bên nọ Châu Giang, và nhất là tại chỗ đó tôi hiểu  được câu Ca dao :

     Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc,

     Gió nào độc cho bằng gió Gò Công.

image007.jpg
Đình Châu Phú thờ Chưởng binh Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh

Đêm tĩnh mịch thức giấc, thỉnh thoảng nghe tiếng trống điểm canh đêm đêm của nhà việc Châu Phú. Tiếng trống thường gợi cho chúng ta nhớ đến thời xa xưa, đến người của những năm tháng cũ. Chú tôi, thầy tôi nay yên giấc đã nhiều. Có ai về Châu Đốc, xin cho tôi nhắn hỏi: – Tiếng trống sang canh  còn đó hay không?

Huỳnh Ái Tông